Sự triển khai lý tưởng Tịnh độ theo hướng xây dựng Tịnh độ nhân gian mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho mọi người và cho xã hội.
Chúng ta biết pháp môn niệm Phật phát xuất từ kinh Di Đà, kinh Vô lượng thọ và kinh Quán vô lượng thọ. Ba bộ kinh này được Bồ-tát Thế Thân gọi là Tịnh độ Tam kinh. Trong Tịnh độ luận, ngài Thế Thân đã chứng minh cho thấy thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà là có thật và có người đã vãng sanh về Cực lạc. Đương nhiên, Bồ-tát Thế Thân đã từng qua lại thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và thế giới Ta-bà của Đức Phật Thích Ca.
Pháp môn Tịnh độ được phát triển mạnh ở Trung Quốc. Hai vị Tổ là ngài Huệ Viễn và Thiện Đạo khi thành lập Tịnh Độ tông cũng y theo tinh thần của ba bộ kinh nói trên làm tông chỉ tu hành và phát triển thêm.
Từ trước đến đầu thế kỷ XX, người tu pháp môn Tịnh độ chỉ sử dụng Tịnh độ Tam kinh cho thời khóa tu và mục tiêu là niệm Phật để vãng sanh. Nhưng việc chuyên niệm Phật để vãng sanh không thích hợp với nhiều xã hội, nên không được đa số quần chúng chấp nhận.
Vì vậy, đến đầu thế kỷ XX, ngài Ấn Quang Đại sư chủ trương Tịnh độ Ngũ kinh, đó là ngoài ba bộ kinh nói trên còn có thêm hai bộ kinh là kinh Hoa nghiêm, phẩm Nhập bất tư nghì giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện và kinh Lăng nghiêm, phẩm Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông tam muội, để bổ sung cho sự thiếu sót của pháp tu Tịnh độ.
Trở lại pháp môn Tịnh độ, lâu nay chúng ta chịu ảnh hưởng sai lầm lớn của một số người đi trước. Họ chủ trương xây dựng thế giới Cực lạc ở phương Tây và minh họa cuộc sống hiện tại của chúng ta là đáng chán, đáng bỏ để đưa mọi người về Tây phương Cực lạc. Như vậy, họ đã vô tình tạo nên những người chán đời, từ bỏ xã hội.
Tịnh Độ tông Nhật Bản không chấp nhận chủ trương này, nhưng họ xây dựng Tịnh độ theo mô hình Ngũ kinh, tức trong đó có kinh Hoa nghiêm. Kinh Hoa nghiêm chủ yếu chỉ có một câu trong Phổ Hiền hạnh nguyện kệ nói rằng: Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung, được gặp Đức Phật A Di Đà, được vãng sanh Cực lạc, đầy đủ hạnh Phổ Hiền và sẽ biến hóa vô số vạn ức thân đi khắp mười phương giáo hóa chúng sanh. Và người này thọ mạng được lâu dài là thọ mạng ở ngay thế giới này, không phải thọ mạng ở Tây phương Cực lạc. Đó là tinh thần Tịnh độ đặc biệt theo kinh Hoa nghiêm.
Chỉ một câu của kinh Hoa nghiêm nói về Tịnh độ, người ta phăng ra toàn bộ tinh thần Tịnh độ theo Hoa nghiêm là xây dựng xã hội với những con người thông minh, sống lâu, khỏe mạnh. Tăng Ni nên biết tư tưởng tích cực của Tịnh độ như vậy đã có trong kinh.
Khi pháp môn Tịnh độ được truyền sang Nhật Bản, ngài Pháp Nhiên và Thân Loan đã thành lập Tịnh Độ tông và Tịnh độ Chân tông. Hai tông Tịnh độ này của người Nhật đưa ra thuyết đới nghiệp vãng sanh, vẫn lấy tín, hạnh, nguyện làm kim chỉ nam tu hành; nghĩa là người tu Tịnh độ phải có niềm tin vững chắc rằng có thế giới Cực lạc, có Đức Phật A Di Đà và tu theo Phật A Di Đà, được vãng sanh về thế giới này. Có niềm tin kiên cố như vậy, hành giả mới chuyên tâm niệm Phật.
Ở Nhật Bản, ngoài Tịnh Độ tông, còn có Tịnh độ Chân tông. Tu sĩ của Tịnh độ Chân tông được gọi là tân tăng, họ lãnh đạo tông phái nhưng không cạo tóc, không ăn chay trường và lập gia đình. Mới nghe qua, chúng ta nghĩ họ không phải là tu sĩ.
Tuy nhiên trên thực tế, sinh hoạt của tông phái này đã phát triển từ thế kỷ XII, kéo dài cho đến ngày nay lại phát triển mạnh hơn nữa.
Tông này cho rằng không phải ai cũng có điều kiện xuất gia, tu hành thanh tịnh, được giải thoát, lên Niết-bàn. Theo họ, mọi người đều mang sanh thân, nên phải theo quy luật chi phối của xã hội.
Khởi xướng Tịnh độ Chân tông là Thân Loan Thượng nhân. Ngài là con của một vị Tể tướng thuộc dòng họ cao quý đi tu. Với chủ trương táo bạo, trái ngược với chủ trương thời bấy giờ là nhà sư phải ăn chay và sống độc thân, nên ngài đã bị bắt và bị đày.
Ngài nói dù không chấp nhận phương cách tu hành do ngài đề xướng, nhưng đó vẫn là một thực tế tồn tại và sẽ phát triển. Quả đúng như vậy, ngày nay Tịnh độ Chân tông ở Nhật phát triển thuận lợi hơn các tông phái khác.
Người tu của tông này có niềm tin tôn giáo mãnh liệt, nhưng sống đời thường. Nhờ vậy, họ có thể làm tất cả ngành nghề và sinh hoạt được ở tất cả mọi nơi. Họ nương vào ưu thế này để truyền đạo dễ dàng. Trong khi người mang hình thức xuất gia có nhiều việc không làm được, có nhiều nơi không đến được theo luật định.
Tu sĩ Tịnh độ Chân tông của Phật giáo Nhật có sinh hoạt tương tự như đạo Tin Lành ở điểm họ đi vào cuộc đời, sống gần gũi với mọi người. Và khi sống bình thường, thân cận với người đời như vậy, thì vị này không có được những lợi thế của người mặc áo xuất gia, nên họ phải phát triển năng lực thực sự. Còn chúng ta mặc áo tu, sống khác người, nên dễ được người tin ta qua chiếc áo tu.
Vị tu sĩ của tông này phải nỗ lực phát triển ưu thế nhiều hơn, nhất là phải phát huy năng lực ngang tầm xã hội hay cao hơn, họ mới tồn tại được; còn kém hơn người đời thì chắc chắn không ai theo họ.
Khoác áo xuất gia có lợi thế là mặc dù kém người đời, chúng ta vẫn sống được. Thí dụ đơn giản như người đời có trình độ đại học, gia đình họ có người qua đời, phải rước thầy tụng kinh, thầy không có học vị cũng được. Nhưng nên biết rằng lợi thế này khó tồn tại lâu dài trong các xã hội văn minh.
Tu sĩ của Tịnh độ Chân tông phải phát triển khả năng chuyên môn để sống, không sống nhờ sự cúng dường. Ở địa phương của họ và trong ngành nghề mà họ làm việc, họ phải bằng với người khác ở lãnh vực làm việc và kiến thức, khả dĩ mới được chấp nhận là người lãnh đạo tinh thần của Phật tử.
Tuy có gia đình, nhưng kiến thức của tu sĩ Tịnh độ Chân tông cao hơn, vì tầm hiểu biết của họ không bị đóng khuôn như người xuất gia. Họ sống gần gũi người đời và đồng thời, pháp tu chủ yếu của họ là cầu nguyện, vãng sanh. Điều này cũng gần với các tôn giáo khác và cũng dễ phổ cập với đa số quần chúng. Vì mọi người sống trên cuộc đời này mà tự giác ngộ, lên Niết-bàn, thì ít có người nghĩ tự bản thân họ làm được; nên họ cần tha lực. Và bản thân họ cũng có niềm tin, thường cầu nguyện, kết quả trước mắt là họ được yên lòng.
Với chủ trương không xuất gia, nhưng siêng năng niệm hồng danh Phật và cầu vãng sanh, nên pháp tu này đơn giản, đa số thực hành được. Đó là những lý do giúp cho Tịnh độ Chân tông dễ phát triển trong xã hội đương đại của Nhật Bản.
Trong kinh điển Nguyên thủy, Đức Phật nói về thế giới Niết-bàn, nhưng chuyển sang kinh điển Đại thừa, cảnh giới Niết-bàn được triển khai thành các mô hình Tịnh độ như Tây phương Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, Đông phương Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư, Tịnh độ của Duy Ma, Tịnh độ của Pháp hoa, v.v…
Trong pháp hội Vô Lượng Thọ, Đức Phật Thích Ca hiện tướng rất vui. Đức A Nan thấy vậy mới hỏi tại sao suốt thời gian dài, không thấy Phật vui, mà hôm nay lại có tướng lành này.
Phật cho biết Ngài luôn khắc khổ, vì suốt 12 năm, Ngài nghĩ đến việc giáo dưỡng đại chúng và phải thể hiện nét kiểu mẫu cho đại chúng noi theo tu hành. Hôm nay, đại chúng đã thâm nhập Phật đạo, đắc quả, nên Phật muốn chỉ những việc cao hơn; đó là nhân hạnh của các Đức Phật mười phương. Và hiện tại, Ngài đang nghĩ đến Phật A Di Đà là giáo chủ thế giới Cực lạc ở phương Tây, mới hiện nét mặt rạng rỡ như vậy.
Ý này cho thấy pháp môn Tịnh độ tiêu biểu cho tinh thần tích cực, không phải buồn rầu, chán đời như nhiều người lầm tưởng. Thế giới vui cực kỳ này là Tịnh độ, vì tâm của hành giả ở đó hoàn toàn an vui, thân hoàn toàn khỏe mạnh, hoàn cảnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch, xã hội hoàn toàn tốt đẹp.
Người Nhật tiếp thu tinh thần Tịnh độ như vậy, nên họ xây dựng Tịnh độ nhân gian để tăng tuổi thọ, sức khỏe tốt, hiểu biết rộng, năng lực và đạo đức cao hơn người đời.
Tóm lại, ngoài những lý do giúp cho sự phát triển Tịnh độ Chân tông mà chúng tôi nêu trên, thì sự triển khai lý tưởng Tịnh độ theo hướng xây dựng Tịnh độ nhân gian mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho mọi người và cho xã hội. Điều này chắc chắn cũng góp phần không nhỏ cho Tịnh độ Chân tông phát triển dễ dàng ngay cả ở thời đương đại tại đất nước văn minh nhất nhì thế giới.
(Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ)